Các mặt trận Chiến_tranh_Tây_Ban_Nha–Mỹ

Thái Bình Dương

Philippines

Trận vịnh Manila, được phát họa bằng thạch bản bởi Butler, Thomas & Company năm 1899

Trận chiến đầu tiên là ở vịnh Manila nơi mà vào ngày 1 tháng 5 năm 1898, phó đề đốc George Dewey chỉ huy Hải đoàn Á châu của Hải quân Hoa Kỳ trên chiến hạm USS Olympia, chỉ trong vòng vài giờ, đã đánh bại hải đoàn Tây Ban Nha dưới quyền của đô đốc Patricio Montojo y Pasarón. Dewey giành được chiến thắng mà chỉ thiệt hại một binh sĩ. Tuy nhiên người này chết vì đau tim.[20][21]

Vì người Đức chiếm được Thanh Đảo năm 1897 nên hải đoàn của Dewey trở thành lực lượng hải quân duy nhất tại Viễn Đông không có căn cứ địa phương cho chính mình. Điều này khiến cho hải đoàn gặp vấn đề thiếu đạn dược và than đá.[22] Mặc dù có vấn đề về tiếp liệu, Hải đoàn Á Châu không chỉ đánh chìm hạm đội Tây Ban Nha mà còn chiếm được cảng Manila.[22]

Sau chiến thắng của Dewey, vịnh Manila tấp nập với nhiều chiến hạm của Vương quốc Anh, Đức, Pháp, và Nhật Bản; tất cả cộng lại hơn lực lượng của Dewey.[22] Hạm đội của Đức với 8 chiến hạm, bề ngoài như có vẻ đến vùng biển Philippine để bảo vệ những quyền lợi của Đức (một hãng nhập khẩu duy nhất), đã hành động gây hấn—băng ngang trước mặt các chiến hạm Mỹ, từ chối chào quốc kỳ Mỹ (theo nghi thức lịch thiệp hàng hải), kéo còi trong cảng, và bốc vở đồ tiếp liệu cho quân Tây Ban Nha đang bị bao vây. Người Đức với những quyền lợi riêng của mình rất hăng say lợi dụng bất cứ cơ hội nào mà cuộc xung đột trên quần đảo có thể mang đến cho họ. Người Mỹ bắt mạch được ý đồ của người Đức liền đe dọa xung đột nếu các hành động gây hấn tiếp diễn, khiến người Đức nhượng bộ.[23][24]

Phó đề đốc Dewey đưa Emilio Aguinaldo đang lưu vong tại Hồng Kông về Philippines để tập hợp người Philippine chống lại chính quyền thuộc địa Tây Ban Nha.[25] Hoa Kỳ đổ bộ lực lượng và người Philippine chiếm giữ phần lớn quần đảo vào tháng 6, trừ thành phố pháo đài Intramuros. Ngày 12 tháng 6 năm 1898, Aguinaldo tuyên bố Philippine độc lập.[26]

Ngày 13 tháng 8, vì các tư lệnh Mỹ không biết lệnh ngừng bắn đã được ký kết giữa Tây Ban Nha và Hoa Kỳ trong ngày hôm trước nên các lực lượng Mỹ tấn công và chiếm thành phố Manila từ tay Tây Ban Nha.[27] Trận chiến này đánh dấu sự chấm dứt hợp tác giữa Mỹ và Philippine khi lực lượng Philippine bị ngăn cản tiến vào thành phố Manila. Hành động này gây nên sự căm phẫn sâu sắc trong lòng người Philippine và từ đó dẫn đến cuộc Chiến tranh Philippine-Mỹ sau đó.[28]

Guam

Đại tá hải quân Henry Glass đang có mặt trên tuần dương hạm USS Charleston khi ông mở mật lệnh và nhận được chỉ thị tiến vào đảo Guam rồi chiếm giữ đảo. Ngay khi đến đó vào ngày 20 tháng 6, ông khai hỏa đại bác và bắn lên đảo. Một sĩ quan Tây Ban Nha thiếu trang bị, không biết là chiến tranh đã được tuyên bố, tiến về phía chiến hạm Mỹ và xin mượn ít thuốc nổ để bắn pháo đáp lại lời chào của người Mỹ. Glass liền bắt giữ viên sĩ quan này làm tù binh. Sau khi hứa hẹn, viên sĩ quan này được lệnh quay trở lại đảo để thảo luận các điều kiện đầu hàng. Ngày hôm sau, 54 binh sĩ bộ binh Tây Ban Nha bị bắt và hòn đảo rơi vào tay Hoa Kỳ.

Vùng Caribbean

Cuba

Theodore Roosevelt (lúc đó là phụ tá bộ trưởng Bộ Hải quân Hoa Kỳ) tích cực cổ vũ can thiệp vào Cuba trong khi đó ông đặt Hải quân Hoa Kỳ trong tình trạng thời chiến và chuẩn bị cho Hải đoàn Á châu của Dewey vào trận. Ông làm việc với Leonard Wood để thuyết phục lục quân tuyển mộ một trung đoàn gồm toàn những binh sĩ tình nguyện, đó là trung đoàn Kị binh tình nguyện số 1. Wood được giao chỉ huy trung đoàn này mà sau đó nhanh chóng được biết đến với cái tên "Rough Riders".[29]

Người Mỹ hoạch định chiếm thành phố Santiago de Cuba để tiêu diệt lục quân của Linares và hạm đội của Cervera. Để đến Santiago, họ phải vượt qua các phòng tuyến dày đặc của quân Tây Ban Nha ở Đồi San Juan và một thị trấn nhỏ tại El Caney. Các lực lượng Mỹ được quân nổi dậy người Cuba do tướng Calixto García lãnh đạo giúp đỡ.

Chiến dịch trên bộ
Diễn tả cuộc tấn công của trung đoàn bộ binh 24 và trung đoàn bộ binh da màu 25 tại Đồi San Juan ngày 2 tháng 7 năm 1898.

Giữa 22 tháng 624 tháng 6, Quân đoàn V Hoa Kỳ dưới quyền tướng William R. Shafter đổ bộ ở DaiquiríSiboney, phía đông Santiago, và thiết lập căn cứ hành quân của Mỹ. Một toán quân Tây Ban Nha đánh tẻ quân Mỹ gần Siboney vào ngày 23 tháng 6 rút lui về các vị trí giao thông hào đơn giản tại Las Guasimas. Một đơn vị tiền phương của lực lượng Mỹ dưới quyền cựu tướng phe miền nam thời nội chiến là tướng Joseph Wheeler không nghe theo lời chỉ dẫn của nhóm trinh sát người Cuba và ra lệnh tiến công một cách cẩn thận. Họ đụng độ và giao chiến với toán quân đi sau của Tây Ban Nha trong trận Las Guasimas vào ngày 24 tháng 6. Trận chiến kết thúc không phân thắng bại với phần lợi nghiêng về phía Tây Ban Nha. Quân Tây Ban Nha bỏ Las Guasimas theo kế hoạch rút lui về Santiago.

Lục quân Hoa Kỳ dùng những người chuyên đánh tẻ thời Nội chiến Hoa Kỳ đi đầu những mũi tiên phong. Tất cả bốn binh sĩ tình nguyện đi đầu các mũi tiến công đều bị giết chết. Trận Las Guasimas chứng tỏ cho Hoa Kỳ thấy rằng các chiến thuật thời nội chiến không còn hiệu quả để chống lại quân Tây Ban Nha là những người đã học hỏi được kinh nghiệm ẩn núp từ cuộc vật lộn của chính họ với quân nổi dậy Cuba và không bao giờ để lộ vị trí của họ trong lúc phòng thủ. Quân Tây Ban Nha cũng được hỗ trợ vào lúc đó bởi thuốc súng mới không khói mà khi họ bắn ra cũng không để lại dấu vết. Quân Mỹ chỉ có thể tiến công quân Tây Ban Nha bằng cách dùng nhóm 4 đến 5 người tiến công trong lúc những người khác nằm tại chỗ bắn yểm trợ.

Ngày 1 tháng 7, một lực lượng hỗn hợp khoảng 15.000 binh sĩ Mỹ gồm các trung đoàn bộ binh, kị binh và tình nguyện trong đó có Roosevelt và nhóm "Rough Riders" của ông (đáng chú ý là Trung đoàn 71 New York, Trung đoàn 1 North Carolina, Trung đoàn 23 và Trung đoàn da màu 24 cùng các lực lượng nổi dậy người Cuba) tấn công 1.270 quân Tây Ban Nha phòng thủ dưới hào bằng các cuộc tấn công đối mặt nguy hiểm kiểu Nội chiến Hoa Kỳ trong trận El Caneytrận San Juan Hill bên ngoài Santiago.[30] Hơn 200 binh sĩ Hoa Kỳ thiệt mạng và gần 1.200 binh sĩ khác bị thương trong những trận đánh này.[31] Hỏa lực yểm trợ từ các súng Gatling là mấu chốt thành công trong tấn công.[32][33] Hai ngày sau đó Cervera quyết định bỏ Santiago.

Các lực lượng Tây Ban Nha tại Guantánamo cũng bị Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ và các lực lượng nổi dậy Cuba cô lập đến nổi không biết là Santiago đang bị bao vây, và các lực lượng của họ ở phía bắc tỉnh cũng không chọc thủng các phòng tuyến Cuba. Tuy nhiên, lực lượng tiếp viện của Escario từ Manzanillo[34] đã đánh vượt qua sự phản kháng quyết liệt của Cuba nhưng đến nơi quá trễ để tham gia giải cứu cuộc bao vây.

Sau các trận đánh Đồi San Juan và El Caney, cuộc tiến công của Mỹ dừng lại. Quân Tây Ban Nha thành công bảo vệ Đồn Canosa. Việc này giúp họ bình ổn phòng tuyến của họ và chặn đường vào Santiago. Quân Mỹ và Cuba buộc phải bắt đầu một cuộc bao vây đổ máu và bóp nghẹt thành phố.[35] Trong đêm, quân Cuba đào hàng loạt các giao thông hào về phía các vị trí của Tây Ban Nha. Sau khi hoàn thành, các giao thông hào này được giao cho các binh sĩ Hoa Kỳ và rồi một loạt giao thông hào mới được đào tiến về phía trước. Quân Mỹ trong lúc bị tổn thất hàng ngày vì hỏa lực và bị bắn tỉa từ quân Tây Ban Nha lại tổn thất nhiều sinh mạng hơn vì kiệt sức do nắng gây ra và bệnh sốt rét.[36] Tại vùng ven phía tây thành phố, tướng Cuba là Calixto Garcia bắt đầu công phá thành phố, làm cho các lực lượng Tây Ban Nha hoảng sợ và hoang mang bị trả thù.

Các chiến dịch trên biển

Tuần dương hạm Tây Ban Nha Cristóbal Colón bị phá hủy trong trận Santiago ngày 3 tháng 7 năm 1898.

Cảng lớn Santiago de Cuba là mục tiêu chính của các chiến dịch trên biển trong suốt thời gian chiến tranh. Hạm đội của Hoa Kỳ tấn công Santiago cần có nơi trú ẩn để tránh mùa bão Đại Tây Dương. Vì thế vịnh Guantánamo với hải cảng tốt đã được chọn cho mục đích này. Cuộc tiến công chiếm vịnh Guantánamo xảy ra vào ngày 6 tháng 610 tháng 6 năm 1898, ban đầu bằng cuộc tấn công của hải quân và sau đó là cuộc đổ bộ thủy quân lục chiến thành công với sự yểm trợ của hải quân.

Trận Santiago de Cuba vào ngày 3 tháng 7 năm 1898 là trận hải chiến lớn nhất trong Chiến tranh Tây Ban Nha–Mỹ. Kết quả là Hải đoàn Caribbean của Tây Ban Nha (cũng còn được biết tên là Flota de Ultramar) bị tiêu diệt. Vào tháng 5 năm 1898, hạm đội Tây Ban Nha của đô đốc Pascual Cervera y Topete ban đầu được phát hiện nằm trong cảng Santiago là nơi hạm đội của ông trú ẩn tránh bị tấn công từ biển. Các lực lượng Tây Ban Nha và Mỹ đối đầu nhau trong khoảng 2 tháng. Khi hải đoàn Tây Ban Nha tìm cách rời cảng ngày 3 tháng 7, lực lượng Mỹ tiêu diệt hoặc làm mắc cạn 5 trong số 6 chiến hạm. Chỉ một chiến hạm Tây Ban Nha là tuần dương hạm mới và có tốc độ nhanh Cristobal Colón thoát nạn nhưng thuyền trưởng của chiến hạm này kéo cờ mình xuống và tự đánh đắm chiến hạm của mình khi lực lượng Mỹ cuối cùng đuổi theo kịp. 1.612 thủy thủ Tây Ban Nha gồm cả đô đốc Cervera bị bắt và bi đưa đến đảo Seavey, Kittery, Maine nơi họ bị giam giữ từ 11 tháng 7 cho đến giữa tháng 9.

Trong suốt cuộc đối đầu, trợ lý công binh Hải quân Hoa KỳRichmond Pearson Hobson được lệnh của chuẩn đô đốc William T. Sampson đánh chìm chiến hạm Merrimac của mình trong cảng để khóa chặt hạm đội Tây Ban Nha bên trong. Nhiệm vụ thất bại. Hobson và thủy thủ của ông bị bắt. Họ được trao đổi tù binh vào ngày 6 tháng 7. Hobson trở thành anh hùng quốc gia và nhận Huân chương Danh dự vào năm 1933 rồi trở thành một dân biểu.

Puerto Rico

Trung đoàn tình nguyện Kentucky số 1 của Hoa Kỳ tại Puerto Rico, 1898.

Trong tháng 5 năm 1898, trung úy Henry H. Whitney thuộc đại đội pháo binh số 4 của Hoa Kỳ được phái đến Puerto Rico trong một sứ mệnh trinh thám. Ông cung cấp bản đồ và các thông tin có liên quan đến lực lượng quân sự Tây Ban Nha về cho chính phủ Hoa Kỳ trước khi cuộc xâm chiếm Puerto Rico.

Ngày 10 tháng 5, các chiến hạm Hoa Kỳ xuất hiện ngoài duyên hải Puerto Rico. Ngày 12 tháng 5, một hải đoàn gồm 12 chiến hạm Hoa Kỳ do chuẩn đô đốc William T. Sampson chỉ huy bắn phá San Juan. Suốt cuộc bắn phá, nhiều tòa nhà chính phủ bị trúng đạn. Ngày 25 tháng 6, chiến hạm Yosemite phong tỏa cảng San Juan. Ngày 25 tháng 7, tướng Mỹ Nelson A. Miles cùng với 3.300 binh sĩ đổ bộ ở Guánica, và Chiến dịch Puerto Rico bắt đầu. Quân Mỹ gặp phải sự chống trả ngay lúc đầu cuộc xâm chiếm.

Trận chạm trán đầu tiên giữa quân Mỹ và Tây Ban Nha xảy ra tại Guanica. Cuộc chống cự bằng vũ trang có tổ chức đầu tiên xảy ra tại Yauco mà sau này được nhắc đến với tên gọi trận đánh Yauco.[37] Theo sau trận đánh này là các trận đánh Fajardo, Guayama, cầu sông Guamani, Coamo, Silva Heights và cuối cùng là trận Asomante.[37][38] Ngày 9 tháng 8 năm 1898, bộ binh và kị binh Mỹ đụng độ với quân Tây Ban Nha và quân trung thành Puerto Rico được trang bị với đại bác trên một ngọn núi có tên Cerro Gervasio del Asomante trong lúc quân Mỹ tìm cách tiến vào Aibonito.[38] Các tư lệnh Mỹ quyết định rút lui và tập hợp lại để quay trở lại vào ngày 12 tháng 8 năm 1898 cùng với một đơn vị pháo binh.[38] Các đơn vị Tây Ban Nha và quân trung thành người Puerto Rico bắt đầu phản công bằng hỏa lực đại bác do Ricardo Hernáiz chỉ huy.

Trong làn lửa đạn, bốn binh sĩ Mỹ là trung sĩ John Long, trung úy Harris, đại úy E.T. Lee và hạ sĩ Oscar Sawanson — bị thương nặng.[38] Dựa vào thực tế này và các báo cáo về việc những toán quân Tây Ban Nha đang trên đường đến chi viện, tư lệnh Landcaster ra lệnh rút lui.[38] Tất cả các hoạt động quân sự trên đảo Puerto Rico bị đình chỉ sau đó trong đêm hôm đó sau khi Hiệp định Paris được công bố.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_tranh_Tây_Ban_Nha–Mỹ http://atlantic-cable.com/Cables/1888Santiago-Guan... http://authorama.com/gatlings-at-santiago-1.html http://www.avizora.com/publicaciones/guerras/texto... http://bartleby.com/51/1.html http://www.eldesastredel98.com/capitulos/pacifico6... http://www.floridamemory.com/OnlineClassroom/Photo... http://books.google.com/books?id=2f0Gf0DQfmUC http://books.google.com/books?id=PvxFKPI6q_oC&prin... http://books.google.com/books?id=wtsBAAAAYAAJ&pg=P... http://www.homeofheroes.com/wallofhonor/spanish_am...